Ví dụ về chính sách tiền tệ

Mục lục:

Anonim

Chính sách tiền tệ đề cập đến sự thao túng của chính phủ đối với cung tiền và sự sẵn có của tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu chính sách. Tại Hoa Kỳ, việc này được Cục Dự trữ Liên bang xử lý và các mục tiêu là thúc đẩy việc làm tối đa, giữ giá ổn định và duy trì lãi suất dài hạn vừa phải.

Công cụ hiện tại

Cục Dự trữ Liên bang có ba công cụ chính của chính sách kinh tế:

  1. Hoạt động thị trường mở: Fed mua và bán chứng khoán chính phủ, chẳng hạn như chứng khoán do Kho bạc Hoa Kỳ phát hành.

  2. Tỷ lệ chiết khấu: Những gì Fed tính cho các tổ chức lưu ký cho các khoản vay ngắn hạn

  3. Điều kiện kín: Tỷ lệ tiền gửi yêu cầu của Fed mà ngân hàng phải duy trì, cho dù số tiền đó được giữ trong kho của ngân hàng hay gửi tại Ngân hàng Dự trữ Liên bang.

Thông thường, Cục Dự trữ Liên bang kiểm soát chính sách tiền tệ bằng cách kiểm soát lãi suất danh nghĩa ngắn hạn và quản lý nguồn cung dự trữ bằng cách mua và bán Chứng khoán Kho bạc Hoa Kỳ. Việc mua chứng khoán giúp lãi suất ngắn hạn đạt được số mục tiêu của Ủy ban Thị trường mở Liên bang.

Giữ giá thấp

Đôi khi, chính sách tiền tệ có thể thúc đẩy tăng trưởng bằng cách giữ lãi suất thấp. Ví dụ, sau cuộc khủng hoảng tài chính của Hoa Kỳ năm 2007-08, Cục Dự trữ Liên bang đã giảm lãi suất quỹ liên bang, đóng vai trò là lãi suất qua đêm cho các khoản vay giữa các ngân hàng, có hiệu quả bằng không. Điều đó lần lượt giảm chi phí vay cho người tiêu dùng, và giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Nó cũng cung cấp hướng dẫn chuyển tiếp liên quan đến kỳ vọng của nó về cách lãi suất sẽ di chuyển trong tương lai. Đưa ra những hiểu biết sâu sắc về các quyết định chính sách trong tương lai của nó làm tăng tính minh bạch và có thể phục vụ để thúc đẩy đầu tư bằng cách cho các nhà đầu tư biết họ có thể kỳ vọng lãi suất sẽ không đổi trong bao lâu. Tuy nhiên, điều này cũng làm tăng rủi ro rằng thị trường sẽ không diễn giải thông tin theo cách mong muốn. Ví dụ, thông báo rằng lãi suất có thể sẽ còn thấp trong thời gian dài có thể khiến người nghe nghĩ rằng chính phủ kỳ vọng nền kinh tế sẽ yếu đi, và do đó truyền cảm hứng cho người tiêu dùng và nhà đầu tư cắt giảm hoạt động của họ cho đến khi tình hình được cải thiện.

Chính sách hoạt động

Chính sách tiền tệ có thể đảm nhận vai trò tích cực hơn khi các sự kiện được đảm bảo. Cuộc khủng hoảng 2007-08, chẳng hạn, đã gây ra một số chính sách tiền tệ độc đáo ở Hoa Kỳ. Fed đã tiến hành các hoạt động cho vay khẩn cấp vượt ra ngoài phạm vi của các tiền lệ trước đó. Nó cũng tiến hành mua tài sản quy mô lớn được phát hành bởi các chứng khoán được thế chấp bởi chính phủ liên quan đến nhà ở - và tiếp tục làm như vậy trong nhiều năm.

Ví dụ, vào năm 2013, Fed vẫn mua 40 tỷ đô la mỗi tháng bằng chứng khoán được thế chấp. Những biện pháp này đã hấp thụ nguồn cung mà nếu không sẽ góp phần vào tình trạng dư thừa chứng khoán nhà đất trên thị trường, làm giảm nguồn cung và làm tăng giá nhà và cổ phiếu. Những chỉ trích về hành động đó lưu ý rằng việc mua chứng khoán không loại bỏ các tài sản độc hại, nhưng chỉ cần chuyển chúng vào bảng cân đối của Fed với tác động tiêu cực đến lợi nhuận của chính nó.

Cuộc khủng hoảng đó cũng chứng kiến ​​Fed phân bổ tín dụng trực tiếp vào các tổ chức tài chính. Trong số những người được cho vay như vậy bao gồm Morgan Stanley, Citigroup, Bank of America và Goldman Sachs. Mục đích là "để giải quyết các căng thẳng trên thị trường tài chính, hỗ trợ dòng tín dụng cho các gia đình và công ty Mỹ và thúc đẩy phục hồi kinh tế."

Lời khuyên

  • Trong khi các chính sách của Cục Dự trữ Liên bang có thể đã giúp Hoa Kỳ vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu vào năm 2007, Jeff Lacker, Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang Richmond, lưu ý rằng cách tiếp cận của họ cũng mang theo rủi ro. Ví dụ, lựa chọn mua chứng khoán được thế chấp có thể gây áp lực từ các nhóm lợi ích khác để làm điều tương tự nếu nó gặp phải sự sụp đổ giá và thất bại của nhà đầu tư.

Ví dụ về kết quả tiêu cực

Trong lịch sử, một số chính phủ đã phản ứng với các cuộc khủng hoảng tài chính bằng cách tăng đáng kể nguồn cung tiền tệ. Chính sách tiền tệ này có thể dẫn đến siêu lạm phát. Ví dụ kinh điển ở đây là Cộng hòa Weimar ở Đức, đáp ứng nhu cầu bồi thường của Đồng minh sau Thế chiến I và sự chiếm đóng tiếp theo của thung lũng Ruhr bằng cách in thêm tiền. Điều đó khiến cho những gì còn lại của nền kinh tế sau chiến tranh sụp đổ, và sẽ tạo tiền đề cho phát xít Đức lên nắm quyền và Chiến tranh thế giới thứ hai. Gần nhà hơn, trong Nội chiến, các quốc gia Liên minh đã tăng lượng tiền tệ lưu hành để đáp ứng nhu cầu tài chính, gây ra siêu lạm phát và tăng giá.

Chính sách tiền tệ không hiệu quả cũng có thể làm trầm trọng thêm một tình huống tiêu cực. Ví dụ, việc thắt chặt nguồn cung tiền đã giúp làm trầm trọng thêm các tác động tiêu cực của cuộc Đại suy thoái và góp phần vào cuộc suy thoái năm 1937 làm gián đoạn sự phục hồi, theo The economist.