Lý thuyết quản lý động lực

Mục lục:

Anonim

Động lực là quá trình tâm lý cung cấp mục đích và ý định hành vi - nó giải thích tại sao mọi người hành xử theo cách họ làm. Bằng cách sử dụng các lý thuyết động lực, quản lý có thể truyền cảm hứng cho khách hàng chọn thương hiệu và khuyến khích nhân viên hành động và tự định hướng. Các lý thuyết khác nhau về động lực trong tâm lý học tồn tại đã được nghiên cứu và thực hiện trong quản lý liên quan đến động lực.

Lý thuyết nhu cầu có được

Lý thuyết này nói rằng mỗi người có cùng một nhu cầu, nhưng mỗi cá nhân ưu tiên chúng khác nhau. Lý thuyết xác định ba nhu cầu: thành tích, quyền lực và liên kết. Nhu cầu đạt được thành tích là mong muốn làm tốt nhiệm vụ, nhu cầu quyền lực thể hiện bản thân thông qua ảnh hưởng đối với người khác và nhu cầu liên kết là khao khát những mối quan hệ có ý nghĩa. Quản lý cần xác định nhu cầu ưu tiên hàng đầu của mỗi người và điều chỉnh tình hình làm việc phù hợp để tối ưu hóa hiệu suất của mỗi người. Ví dụ, nếu một nhân viên có động lực để làm tốt, bạn có thể truyền cảm hứng cho anh ta bằng cách cung cấp các mục tiêu kéo dài.

Owen và Động lực trong quản lý

Robert Owen, một nhà cải cách xã hội xứ Wales, đã phát triển một lý thuyết dựa trên kinh nghiệm của mình với máy móc trong thời đại công nghiệp những năm 1800. Máy càng được chăm sóc, bảo dưỡng và chăm sóc tốt thì máy càng hoạt động tốt. Lý thuyết này là một cuộc cách mạng trong thời gian của ông và đã tiếp tục là sự thật.

Lý thuyết của Owen liên quan đến các doanh nghiệp nhỏ về mặt quản lý nhân sự. Các doanh nghiệp đặt nhu cầu và mong muốn của người lao động là ưu tiên hàng đầu sẽ tạo ra những người làm việc hiệu quả và có động lực. Bằng cách chăm sóc công nhân của họ và tập trung vào sự phát triển của họ, các doanh nghiệp được hưởng lợi từ những nhân viên có kỹ năng tốt hơn với tinh thần cao hơn.

Tháp nhu cầu của Maslow

Một trong những lý thuyết động lực khác trong kinh doanh là hệ thống nhu cầu của Maslow, trong đó xác định những nhu cầu cơ bản nhất của một người trên một kim tự tháp tiến bộ, kết thúc với những nhu cầu cơ bản nhất của một người. Lý thuyết của Maslow nói rằng chỉ những nhu cầu không được thỏa mãn mới có thể được sử dụng để thúc đẩy một người. Ví dụ, nếu một người kiếm được nhiều tiền, anh ta không còn xem tiền là yếu tố thúc đẩy công việc của mình. Các nhu cầu mà Maslow xác định bao gồm sinh lý, an toàn, xã hội, lòng tự trọng và tự thực hiện.

Theo lý thuyết này, quản lý có thể thúc đẩy người lao động bằng cách đáp ứng nhu cầu cơ bản nhất của con người và xây dựng dựa trên họ. Ví dụ, quản lý nên đảm bảo rằng nhân viên được phân bổ một lượng thời gian hợp lý cho thực phẩm, giao tiếp xã hội và nghỉ ngơi.

Ngoài ra, các công ty có thể sử dụng kim tự tháp về nhu cầu của lý thuyết để làm cho sản phẩm của họ hấp dẫn hơn với nhu cầu của khách hàng từ cấp thấp hơn đến cấp cao hơn. Ví dụ, khách hàng có nhu cầu sinh lý không được thỏa mãn vẫn chưa sẵn sàng tập trung vào hàng hóa xa xỉ gần đỉnh kim tự tháp. Mặt khác, khách hàng ở gần đỉnh kim tự tháp sẽ quan tâm đến các sản phẩm hoặc dịch vụ liên quan đến sở thích và du lịch.

Lý thuyết hai yếu tố

Lý thuyết hai yếu tố xác định hai nguồn động lực chính cho những người trong lực lượng lao động. Đầu tiên là các yếu tố vệ sinh, như môi trường làm việc, tiền lương của một người, phong cách quản lý và bảo đảm công việc. Động lực thứ hai trong lý thuyết này là sự hài lòng, bao gồm thành tích, địa vị, sự công nhận, trách nhiệm và tiềm năng phát triển. Càng có nhiều yếu tố này trong môi trường của người lao động, nhân viên sẽ càng có động lực.

Lý thuyết ERG

Lý thuyết ERG đại diện cho nhu cầu tồn tại, nhu cầu liên quan và nhu cầu tăng trưởng. Lý thuyết này được xây dựng dựa trên hệ thống phân cấp nhu cầu của Maslow với sự hiểu biết cô đọng về nhu cầu và hành vi của con người. Nhu cầu tồn tại là mong muốn cho hạnh phúc, chẳng hạn như cảm thấy được đánh giá cao và có giá trị. Nhu cầu liên quan là mong muốn giữa các cá nhân, chẳng hạn như có một mạng xã hội mạnh mẽ và quan hệ tốt với quản lý. Nhu cầu tăng trưởng bao gồm mong muốn đào tạo và phát triển cá nhân và chuyên nghiệp, như huấn luyện và đào tạo liên tục.