Định giá chuyển tiền là một phương pháp được các ngân hàng sử dụng để đo lường cách mỗi nguồn tài trợ (tiền gửi và khoản vay) đóng góp vào lợi nhuận của ngân hàng. Một doanh nghiệp ngân hàng phụ thuộc vào tiền gửi mà nó nhận được. Nó sử dụng các quỹ này để thực hiện các khoản vay hoặc đầu tư. Các khoản thanh toán lãi được thực hiện trên các quỹ này xác định biên lãi ròng của ngân hàng. Biên lãi ròng thường là nguồn lợi nhuận ngân hàng lớn nhất. Bởi vì giá chuyển tiền giúp tính toán biên lãi ròng trên quỹ ngân hàng, nên đây là một trong những công cụ quan trọng nhất để đo lường khả năng sinh lời của từng nguồn tài trợ của ngân hàng.
Chọn một phương thức định giá chuyển tiền. Các phương pháp phổ biến nhất là khớp tỷ lệ nhóm đơn, khớp nhiều tỷ lệ nhóm và thời gian đáo hạn phù hợp.
Phương pháp tỷ lệ nhóm duy nhất chỉ sử dụng một tỷ lệ chuyển tiền (chi phí tài trợ cho các khoản vay và giá trị tiền gửi) để ghi có tất cả các khoản tài trợ được cung cấp và ghi nợ tất cả các khoản tài trợ được sử dụng. Phương pháp đơn giản này không tính đến các yếu tố như sự trưởng thành và rủi ro nhúng.
Kết hợp nhiều nhóm chia bảng cân đối thành các nhóm tài sản, sau đó được khớp với phía đối diện của bảng cân đối để thiết lập tỷ lệ chuyển tiền phù hợp.
Thời gian đáo hạn phù hợp khớp với từng tài khoản của khách hàng với chỉ số theo định hướng thị trường. Phương pháp này là phổ biến và chính xác, bởi vì giá chuyển nhượng gán giá trị đóng góp dựa trên thị trường cho từng nguồn và từng cách sử dụng vốn.
Thiết lập một đường cong tài trợ phản ánh tốt nhất việc sử dụng vốn trên thị trường bán buôn. Một số lựa chọn tốt nhất bao gồm lãi suất liên ngân hàng như Tỷ giá được cung cấp liên ngân hàng Luân Đôn hoặc LIBOR; đường cong hoán đổi liên ngân hàng; hoặc đường cong lãi suất kho bạc. Dòng tiền, tính toán lại và kỳ hạn của công cụ tài chính được sử dụng để xác định điểm trên đường cong chuyển tiền để tìm tỷ lệ chuyển tiền. Tỷ lệ chuyển tiền được chọn phải phù hợp với tỷ giá thị trường trên đường chuyển càng gần càng tốt. Đường cong tài trợ, chỉ đơn giản là vẽ ra mối quan hệ giữa thời gian đến khi đáo hạn và mang lại sự trưởng thành cho một loại công cụ tài chính nhất định (Tham khảo 1).
Xem xét các biến liên quan đến từng khoản vay hoặc tiền gửi sau khi tỷ lệ chuyển tiền đã được chọn. Điều này sẽ giúp xác định xem tốc độ chuyển có đầy đủ hay không. Đối với các khoản vay, xem xét chi phí trọn đời cố định và thay đổi liên quan đến khoản vay và chi phí vốn được giao dựa trên tất cả các rủi ro liên quan (tín dụng, lãi suất, thị trường, thanh khoản và hoạt động).
Đối với tiền gửi, hãy xác định chi phí trọn đời cố định và thay đổi liên quan đến tiền gửi và chi phí vốn được giao dựa trên rủi ro nhúng (lãi suất, thanh khoản thị trường và hoạt động).
Tìm chênh lệch tín dụng cho các khoản vay và chênh lệch nhượng quyền tiền gửi đối với tiền gửi. Mức chênh lệch tín dụng, do ngân hàng kiếm được khi giả định rủi ro tín dụng, phải đủ để bù đắp cho tổn thất tín dụng và mang lại lợi nhuận tương xứng. Ví dụ: đối với khoản vay một năm với tỷ lệ được tính cho khách hàng là 7 phần trăm và tỷ lệ chuyển khoản là 5 phần trăm, đó là 2 phần trăm.
Ngân hàng kiếm được tiền nhượng quyền thương mại cho các khoản vay và đầu tư. Nó phải đủ để bù đắp chi phí hoạt động của chi nhánh, hệ thống phân phối bán lẻ và chi phí chung, và nó phải tạo ra lợi nhuận tương xứng cho ngân hàng. Ví dụ: chứng chỉ tiền gửi ba tháng ở mức 3 phần trăm, khớp với tỷ lệ chuyển khoản là 4 phần trăm, có nghĩa là 1 phần trăm.
Tính tỷ lệ lãi suất ròng, hoặc IRM, cho tất cả các khoản tiền được sử dụng bởi ngân hàng. Trừ tổng lãi suất cho các khoản tiền gửi từ lãi thu được từ các khoản tiền được sử dụng cho các khoản vay và đầu tư. Điều này cho thấy lãi hay lỗ của ngân hàng.
Lời khuyên
-
Không có câu trả lời đúng về thực tiễn tốt nhất trong việc lựa chọn đường cong chuyển giá quỹ ngân hàng. Ngân hàng phải chọn đường cong tốt nhất liên quan đến nhu cầu và mục tiêu của chính nó.
Cảnh báo
Sử dụng các chỉ số tiếp thị không có rủi ro tín dụng, như đường cong lãi suất Kho bạc, khuyến khích các ngân hàng thực hiện các khoản vay có lợi nhuận thấp hơn so với trước đây. Nó cũng có xu hướng không khuyến khích tiền gửi có thể sinh lãi.