Cổ tức là phần thưởng tài chính mà một công ty dành cho các cổ đông. Cổ tức không phải là một điều cần thiết như một phần thưởng cho các cổ đông. Tuy nhiên, khi chúng xảy ra, một công ty phải ghi lại và báo cáo chính xác về báo cáo tài chính. Cổ tức được kê khai và cổ tức phải trả là hai thuật ngữ kế toán áp dụng cho hoạt động kinh doanh này.
Cổ tức được tuyên bố
Một công ty thường tuyên bố cổ tức trước khi thực sự trả cho nhà đầu tư tiền mặt. Cổ tức được khai báo thường là số tiền trên mỗi cổ phiếu của một cổ phiếu cụ thể, chẳng hạn như 0,25 đô la cho mỗi cổ phiếu của cổ phiếu phổ thông do các cổ đông nắm giữ. Các công ty thường nói rằng cổ tức chỉ áp dụng cho các cổ phiếu nắm giữ vào một ngày nhất định. Điều này ngăn cản các nhà đầu tư mới mua cổ phiếu chỉ để kiếm cổ tức.
Cổ tức phải trả
Một khi công ty tuyên bố cổ tức, công ty phải ghi nhận trách nhiệm pháp lý. Điều này cho thấy công ty có một khoản thanh toán tiền mặt trong tương lai sẽ xảy ra theo thỏa thuận quản lý. Tài khoản phải trả là khoản nợ phải trả trên bảng cân đối kế toán của công ty. Số tiền đô la bao gồm trong tài khoản là tiền mặt mà công ty sẽ trả theo chỉ định tại ngày kê khai cổ tức.
Bài dự thi
Kế toán phải thực hiện một vài mục nhật ký để ghi nhận cổ tức đã kê khai và cổ tức đã trả. Sau ngày kê khai, kế toán sẽ ghi nợ thu nhập giữ lại và cổ tức tín dụng phải trả cho số tiền khai báo. Sau khi thanh toán, kế toán sẽ ghi nợ cổ tức phải trả và tiền mặt tín dụng. Điều này loại bỏ các khoản phải trả từ sổ sách và hoàn thành quá trình trả cổ tức.
Hiệu ứng
Cổ tức làm giảm giá trị của công ty. Thu nhập giữ lại là một con số kế toán thể hiện thu nhập ròng mà công ty tái đầu tư vào hoạt động. Giảm con số này cho thấy công ty có ít tiền mặt hơn để cải thiện hoạt động kinh doanh. Trong một số trường hợp, việc mở rộng kinh doanh trong tương lai có thể là không thể khi phát hành cổ tức. Các cổ đông phải chấp nhận sự đánh đổi này khi một công ty phát hành một lần hoặc nhiều cổ tức.