Nhiều mặt hàng nằm trong bảng cân đối kế toán của một công ty và một số tài khoản thậm chí khác nhau giữa các công ty do các công ty kinh doanh khác nhau đang ở. Một tài khoản không thay đổi là tài khoản vốn chủ sở hữu. Sẽ luôn có một. Vốn chủ sở hữu đo lường bao nhiêu chủ sở hữu đã đầu tư vào doanh nghiệp thông qua đóng góp trực tiếp hoặc thông qua thu nhập tái đầu tư.
Vốn chủ sở hữu bắt đầu
Vốn chủ sở hữu là vốn chủ sở hữu hoặc về cơ bản là sự thay đổi ròng trong việc góp vốn hoặc rút tiền của chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu bắt đầu trên bảng cân đối kế toán chỉ là bao nhiêu chủ sở hữu ban đầu đã đưa vào công ty. Nếu một chủ sở hữu đã đầu tư 100 đô la, vốn chủ sở hữu sẽ là 100 đô la. Tuy nhiên, nếu 50 đô la trong số đó dưới dạng khoản vay mà công ty phải trả lãi cho chủ sở hữu hàng quý, công ty sẽ có vốn chủ sở hữu 50 đô la bắt đầu và 50 đô la nợ.
Mục đích
Vốn chủ sở hữu có nhiều mục đích. Đối với các ngân hàng, nó cho thấy công ty có thể mất bao nhiêu tiền trước khi các ngân hàng bắt đầu mất tiền. Nhìn vào các xu hướng trong vốn chủ sở hữu sẽ giúp một nhà đầu tư xem liệu công ty có kiếm được tiền hay không. Nó cũng giúp nhà đầu tư xác định tỷ lệ đòn bẩy để xem công ty có bao nhiêu nợ và các biện pháp hoàn vốn để xem công ty kiếm tiền tốt như thế nào trên vốn của chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu cao
Không có quy tắc cho mục đích đầu tư nếu một công ty có vốn chủ sở hữu cao. Vốn chủ sở hữu cao có thể có nghĩa là công ty đã kiếm được rất nhiều tiền nhưng không hiệu quả với việc phân bổ vốn. Trong trường hợp đó, công ty có quá nhiều tài sản và có thể được mở để trả lại một số tiền cho các cổ đông thông qua việc mua lại cổ phần hoặc thông qua cổ tức. Tuy nhiên, vốn chủ sở hữu cao cũng có thể có nghĩa là công ty chỉ đang cố gắng tự quản lý một cách bảo thủ mà không phải lo lắng về rủi ro tài chính bên cạnh rủi ro kinh doanh.
Vốn chủ sở hữu thấp hoặc tiêu cực
Vốn chủ sở hữu thấp hoặc tiêu cực có thể có nghĩa là một trong ba điều. Đầu tiên, công ty không có lãi và tốt nhất là công ty nên thanh lý hoặc tìm người mua. Thứ hai, công ty có thể đang làm tốt công việc quản lý vốn của mình và đã có thể trả lại rất nhiều tiền cho các cổ đông. Thứ ba, công ty đã gánh rất nhiều nợ và thêm rủi ro tài chính làm tăng thêm mức độ rủi ro tài chính không cần thiết cho một khoản đầu tư.