Sự khác biệt giữa các tài khoản gộp phải thu và tài khoản ròng phải thu

Mục lục:

Anonim

Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Tài chính (FASB) là tổ chức chịu trách nhiệm tạo ra các Nguyên tắc Kế toán được Chấp nhận Chung. Theo các hướng dẫn này, các công ty phải tuân theo các thủ tục nhất định để tính toán các khoản phải thu gộp và tài khoản ròng. Sự khác biệt giữa hai nằm ở phương thức mà một công ty chọn để ước tính các khoản nợ xấu của mình.

Tổng tài khoản phải thu

Các tài khoản phải thu gộp thể hiện một tài sản cho công ty trên bảng cân đối kế toán. Số dư trong tài khoản là số tiền mà công ty có quyền hợp pháp để thu thập, nhưng vẫn chưa nhận được tiền mặt. Ví dụ, các công ty thẻ tín dụng đang kinh doanh mở rộng tín dụng cho người tiêu dùng. Khi người tiêu dùng sử dụng thẻ để mua hàng, họ phải chịu trách nhiệm pháp lý để trả nợ cho công ty thẻ tín dụng. Tại thời điểm này, công ty thẻ tín dụng tăng tổng số tài khoản phải thu đối với số tiền mà người tiêu dùng nợ. Tuy nhiên, một số con nợ sẽ không trả số dư của họ, đó là lý do tại sao các công ty cũng báo cáo một khoản phải thu ròng.

Tài khoản ròng phải thu

Sự khác biệt giữa tổng tài khoản phải thu và tài khoản ròng phải thu là số tiền mà một công ty dự đoán sẽ không thể thu được. Trong một thế giới hoàn hảo, một công ty sẽ luôn thu 100% số tiền mà nó đang nợ. Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp, và cả nhà đầu tư và người cho vay thích nhìn thấy sự cân bằng thực tế hơn về những gì công ty sẽ thu thập. Một yếu tố quan trọng trong việc đánh giá sức khỏe của một công ty là lượng tiền mặt có trong tay và tiền mặt mà nó thực sự mong đợi sẽ thu được trong tương lai gần. Do đó, việc sử dụng số ròng cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về vị trí dòng tiền của công ty.

Dự toán nợ xấu

Để có được từ các khoản phải thu gộp, các kế toán công ty đã nỗ lực rất nhiều để ước tính tỷ lệ phần trăm của tổng số dư phải thu sẽ không thể thu được, và do đó, đã bị xóa trên sổ sách của công ty. Kế toán công ty ước tính khoản nợ xấu là tỷ lệ phần trăm của doanh thu hàng năm hoặc tỷ lệ phần trăm của doanh số tín dụng hàng năm. Ước tính này làm giảm lợi nhuận mà một công ty báo cáo về báo cáo thu nhập. Tuy nhiên, chi phí nợ xấu cũng làm tăng số dư trong trợ cấp cho các tài khoản nghi ngờ trên bảng cân đối kế toán.

Phụ cấp nợ xấu

Số dư trong trợ cấp cho các tài khoản nghi ngờ được trừ vào tổng số dư tài khoản phải thu để đến các khoản phải thu ròng. Số dư ban đầu tăng cho chi phí nợ xấu mà công ty ước tính và dao động trong năm do công ty xác định hóa đơn cụ thể nào sẽ không bao giờ được thu. Ví dụ: nếu công ty dự đoán rằng 1 triệu đô la trong số dư tài khoản phải thu 100 triệu đô la của mình là không thể kiểm soát được thì tài khoản trợ cấp sẽ tăng thêm 1 triệu đô la. Do đó, số dư khoản phải thu ròng là 99 triệu đô la. Tuy nhiên, một khi công ty đưa ra quyết định cuối cùng rằng một hóa đơn cụ thể là vô giá trị; công ty giảm tài khoản trợ cấp cũng như tài khoản phải thu gộp. Vấn đề chính ở đây là các khoản phải thu ròng chỉ là ước tính tạm thời cho đến khi công ty có được thông tin tốt hơn.