Nhập khẩu và xuất khẩu của New Brunswick

Mục lục:

Anonim

New Brunswick là một tỉnh nhỏ bé và tương đối nghèo của Canada được tìm thấy ở cực tây của đất nước. Nó giáp bang Maine của Mỹ và tỉnh Quebec lớn hơn nhiều. Các lĩnh vực chuyên môn quan trọng nhất của nó là năng lượng, lâm nghiệp và đánh cá. Đó là khoảng 50 phần trăm nông thôn. Nó đã khai thác sự giàu có trong sự phong phú. New Brunswick cung cấp khoảng 1,5 phần trăm GDP của Canada.

Nền kinh tế và nhân khẩu học

Kể từ đầu những năm 1960, New Brunswick đã mở rộng nhanh chóng. Trước đó, nó gần như hoàn toàn ở nông thôn và nghèo. Nhà nước là một người chơi chính trong nền kinh tế, đặc biệt là tài trợ cho ngành năng lượng đang phát triển, chiếm tỷ lệ cực lớn trong cả xuất khẩu và nhập khẩu. Tỉnh này có khoảng 750.000 người, tương đương với bang Utah, và trong số này, khoảng 200.000 người nói tiếng Pháp.

Ngành chính

New Brunswick chiếm ưu thế trong cả năng lượng và đăng nhập ở Canada. Sản xuất giấy là một ngành kinh tế lớn. Cá và nhiều kim loại là một phần quan trọng của nền kinh tế. Tỉnh này khai thác các khoáng sản và kim loại chiến lược như kẽm, đồng, bạc, vàng, muối, uranium và than bùn. Khoai tây của cô thường xuyên có nhu cầu trên toàn cầu, cũng như xi-rô cây phong của cô. Năm 2010, New Brunswick đã xuất khẩu 10 tỷ đô la ra nước ngoài, chủ yếu sang Hoa Kỳ, Nhật Bản, Brazil và Anh, trong khi cô nhập khẩu 12 tỷ đô la, chủ yếu trong lĩnh vực năng lượng.

Xuất khẩu

Theo Bộ Tài chính tỉnh, các sản phẩm năng lượng, đặc biệt là xăng dầu tinh chế, là mặt hàng xuất khẩu chính của tỉnh. Cho đến nay, các sản phẩm năng lượng là ngành xuất khẩu lớn nhất, chiếm khoảng 8,5 tỷ đô la xuất khẩu trong năm 2010. Một thứ hai xa là các mặt hàng nông sản cơ bản như khoai tây, thuốc lá, thịt bò và sữa, kiếm được khoảng 1,3 tỷ đô la trong năm 2010.

Nhập khẩu

Chính quyền của tỉnh đã nhắm mục tiêu phát triển năng lượng là con đường chính cho sự thịnh vượng. Kết quả là sự gia tăng lớn trong cả nhập khẩu liên quan đến năng lượng. Nhìn chung, hàng nhập khẩu đã đến từ Trung Đông và Scandinavia, và tập trung quanh các thành phần dầu khí và thủy điện, máy móc và chuyên môn. Nhập khẩu các loại sản phẩm này lên tới 6,3 tỷ đô la trong năm 2010. Khu vực nhập khẩu quan trọng nhất tiếp theo là hàng hóa công nghiệp và linh kiện cho các nhà máy và mỏ bột giấy, và con số này đã lên tới 931 triệu đô la trong năm 2010.