Lịch sử ngân hàng

Mục lục:

Anonim

Ngân hàng Providence của Rhode Island, được thành lập năm 1791, là ngân hàng thứ năm được thành lập tại Hoa Kỳ. Ngân hàng phát triển và thịnh vượng cùng với quốc gia mới. Providence đã mua Merchants National Bank of Rhode Island vào năm 1926 và lấy tên Merchant. Ngân hàng đã tiến lên phía trước với một loạt các vụ sáp nhập cuối cùng xây dựng một trong những ngân hàng lớn nhất trong cả nước.

Sự hình thành của Hạm đội

Ngân hàng đã thông qua tên Hạm đội vào năm 1982 khi Gary Cummings, nguồn cảm hứng của Hạm đội, đặt ra tên này. Anh cảm thấy các bộ phận của công ty giống như một đội tàu hàng hải, hỗ trợ lẫn nhau và đóng góp vào thành công của tổ chức mẹ. Các quy định ngân hàng tại thời điểm đó ngăn cản các ngân hàng tiến hành kinh doanh ở các tiểu bang khác hoặc điều hành các hoạt động kinh doanh phi tài chính. Hạm đội phá vỡ những hạn chế này bằng cách trở thành một công ty cổ phần, mở rộng các doanh nghiệp tài chính và các công ty mua hàng.

Hạm đội mở rộng ra bên ngoài đảo Rhode

Các quy định ngân hàng cuối cùng đã thay đổi, và Hạm đội bắt đầu một chiến lược mở rộng kéo dài hơn 20 năm. Thương vụ đầu tiên được mua ngoài Rhode Island là First Connecticut Bancorp vào năm 1985 và Hạm đội đã mua lại 40 ngân hàng trong những năm 1980. Thập kỷ là một khó khăn cho nhiều tổ chức tài chính. Hạm đội ban đầu thịnh vượng, nhưng chi phí sáp nhập cùng với cuộc khủng hoảng tài chính tỏ ra nghiêm trọng. Ngân hàng cần một dòng vốn để duy trì hoạt động.

Câu chuyện Norstar

Elkanah Watson đã thành lập Ngân hàng Nhà nước Albany năm 1803 để tài trợ cho các hệ thống giao thông đường thủy nội địa. Ngân hàng phát triển mạnh và phát triển trong một thế kỷ rưỡi tiếp theo, cuối cùng đổi tên thành Norstar. Hạm đội và Norstar đã dành hầu hết những năm 1980 để thảo luận về một sự hợp nhất có thể và sau đó lùi lại. Hạm đội muốn mạng lưới New York có lợi nhuận của bang New York. Hai tổ chức tài chính hùng mạnh cuối cùng đã sáp nhập vào năm 1988, trở thành Hạm đội / Norstar. Hạm đội, với một chỗ đứng vững chắc ở bang New York, có thể mở rộng sang thị trường thành phố New York sinh lợi, một mục tiêu chính của ngân hàng.

Ngân hàng New England mua lại

Hạm đội nỗ lực trở thành một cường quốc tài chính của New England. Chiến lược mở rộng ngân hàng được thiết kế để tạo ra một mạng lưới tiếp cận từ Maine đến Florida và phía tây đến Mississippi. Hạm đội tập trung vào một số đối thủ cạnh tranh ở New England, bao gồm Shawmut, Ngân hàng New England và Ngân hàng Boston. Khi những khó khăn tài chính rơi vào Hạm đội vào cuối những năm 1980, một đối tác trong vỏ bọc của công ty cổ phần tư nhân Kohlberg, Kravis và Roberts (KKR) đã xuất hiện. Ngân hàng New England chịu những vấn đề tài chính lớn trong những năm 1980 và được đưa ra bán. Hạm đội, với sự giúp đỡ của KKR, đấu thầu thành công cho ngân hàng. KKR trở thành cổ đông lớn nhất của ngân hàng. Hạm đội đã thiết lập một chương trình cắt giảm chi phí lớn và một lần nữa là một tổ chức tài chính có lợi nhuận chỉ một năm sau khi nhận được tiền KKR.

Mở rộng tiếp tục trong những năm 1990

Hạm đội sáp nhập với một đối thủ của New England, Shawmut, vào năm 1995, đưa ngân hàng vào vị trí số một ở New England và số chín ở Hoa Kỳ. Hạm đội đã mua công ty môi giới giảm giá Quick and Reilly và công ty con trực tuyến của nó, Suretrade, vào năm 1998. Ngân hàng tiếp tục xem xét kỹ lưỡng một đối thủ khác của New England, Bank of Boston. Nỗ lực mua ngân hàng tỏ ra vô ích trong suốt thập kỷ, nhưng Fleet cuối cùng đã thành công trong việc hoàn thành vụ sáp nhập lớn nhất của ngân hàng năm 1999. FleetBoston trở thành ngân hàng lớn thứ bảy trong cả nước được đo bằng tài sản. Ngân hàng đã tuyển dụng 50.000 người, phục vụ hơn 20 triệu khách hàng và ghi nhận 12 tỷ đô la doanh thu hàng năm. Công ty đã chuyển trụ sở công ty của mình đến Boston và tiếp tục mua sắm, mua lại Hội nghị thượng đỉnh Bancorp, công ty ngân hàng đầu tiên của New Jersey, vào năm 2000.

Sự kết thúc của Hạm đội

FleetBoston không phải là tổ chức tài chính duy nhất mong muốn trở thành một trong những công ty hàng đầu của ngành. Bank of America muốn có mạng lưới FleetBảng New England và New York và đã thành công trong việc mua FleetBoston với giá 47 tỷ đô la vào năm 2004. Bank of America trở thành ngân hàng lớn thứ hai của đất nước. Tất cả các ngân hàng FleetBoston đã thông qua tên, danh tính công ty và logo của Bank of America. FleetBoston là lịch sử.